MOT CHUT VE THUY NGUEN-HP


Thuỷ Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu. Địa hình Thuỷ Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông hồ dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thuỷ Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản và du lịch.
- Vị trí địa lý: Nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng

- Diện tích tự nhiên: 242 km2

- Dân số: 29 vạn người

- Đơn vị hành chính: 34 xã, 2 thị trấn, trong đó có 6 xã miền núi

Trở về Thuỷ Nguyên, không chỉ với những người con xa quê lâu ngày mà ngay chính những người dân nơi đây cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước sự đổi thay, phát triển nhanh chóng của vùng đất này. Nhiều công trình công nghiệp, dân dụng mọc lên san sát, đường sá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Một chiếc áo với những gam màu mới đang khoác lên mình huyện Thuỷ Nguyên, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng trong tương lai không xa theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020.

Những bước khởi sắc đáng mừng:

Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp. Trong giai đoạn 1998 - 2002, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 58% xuống 47,9%; công nghiệp - xây dựng tăng từ 11,9% lên 26,4%; ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lý hơn. Nhờ đó, năm 2002, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 688,7 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2001, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 26,4%, ngành dịch vụ tăng 22,8%.

Trong nông nghiệp, diện tích cấy lúa năng suất thấp giảm dần, một phần chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản; thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cấy lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%; đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2.000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm dần, nhưng do tích cực đưa giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất, giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2002 tăng 24% so với năm 1998.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn, gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong năm 2002, huyện đã đưa vào sử dụng 16 trang trại gà, quy mô 3.000 con/trang trại; 3 trang trại nuôi lợn nái ngoại, quy mô 25 - 30 con/trang trại. Các trang trại tập trung chủ yếu ở một số xã Lưu Kiếm, Lại Xuân và Minh Tân.

Bên cạnh chăn nuôi, huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, lập các dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp. Diện tích nuôi trồng duy trì ở mức 2.450 ha, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, cua bể, cá chim trắng với sản lượng đạt 4.800 tấn/năm. Hoạt động khai thác thuỷ sản phát triển, năm 2002, huyện Thủy Nguyên đóng mới gần 100 tàu đánh cá, nâng tổng số phương tiện đánh bắt lên 1.400 chiếc, trong đó có 450 phương tiện đánh bắt xa bờ, sản lượng khai thác thuỷ sản đạt 5.800 tấn.

Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, tổng giá trị sản xuất đạt 287 tỷ đồng. Hiện nay, trên địa bàn huyện có hơn 20 xí nghiệp, nhà máy, hàng trăm cơ sở sản xuất - kinh doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động đã tạo lập môi trường sản xuất - kinh doanh sôi động, cạnh tranh lành mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng trên địa bàn huyện. Trong đó, nếu năm 1998, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng chỉ đạt 54,1 tỷ đồng thì sang năm 2002, con số này đã tăng lên 182 tỷ đồng, gấp gần 3,4 lần so với năm 1998. Sản lượng một số sản phẩm truyền thống của ngành công nghiệp đều tăng, trong đó đá các loại đạt 450.000 m3, tăng 9%; đúc kim loại đạt 10.500 tấn, tăng 25,7%; vôi củ đạt 44.000 tấn, tăng 10% so với năm 2001. Cùng với những thành tựu đạt được, Thuỷ Nguyên còn đón nhận nhiều dự án lớn đang được đầu tư trên địa bàn như: tuyến Quốc lộ 10 từ Bến Kiền, Đá Bạc sang Quảng Ninh; nhà máy nhiệt điện 600 MW (xã Tam Hưng); Nhà máy Xi măng Hải Phòng (thị trấn Minh Đức); mở rộng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Nam Triệu.... Đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho sự phát triển của Thuỷ Nguyên trong tương lai.

Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh... và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.

Chăm lo đời sống nhân dân:

Có thể nói, bức tranh kinh tế Thuỷ Nguyên trong giai đoạn gần đây đã có những gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới trong cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Thuỷ Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá giáo dục.

Trong đó, lĩnh vực văn hoá - xã hội của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện phương châm ''''Giáo dục là quốc sách hàng đầu'''', hàng năm, tỷ lệ học sinh đến lớp ở các bậc học đạt cao. Năm 2001, huyện đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2001 - 2002, toàn huyện có 245 học sinh đoạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi thành phố, trong đó có 13 giải nhất, 54 giải nhì, 71 giải ba. Để đạt được những kết quả trên, đội ngũ giáo viên các cấp trong huyện luôn được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tính đến nay, toàn huyện có 95% giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm trở lên, tỷ lệ giáo viên giỏi đạt trên 30%.

Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sỹ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hoà nhập cộng đồng.

Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hoá thể thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khoẻ nhân dân. Các môn bơi lặn, bóng đá thiếu niên nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích cao. Trong giai đoạn (1998 - 2002), Thuỷ Nguyên luôn được công nhận là đơn vị lá cờ đầu về phong trào thể dục - thể thao của thành phố.

Về xây dựng cơ bản, huyện chỉ đạo các ban ngành thực hiện xong quy hoạch chi tiết thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức, khu đô thị Bắc Sông Cấm và lập dự án khai thác tài nguyên hồ Sông Giá. Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ ở xã Tân Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2002 đạt 50,5 tỷ đồng.

Hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá. Năm 2002, huyện đã tiến hành cải tạo, nâng cấp 30 km đường, trong đó có 4,6 km đường huyện quản lý và 25,4 km đường liên thôn, xóm, xã.

Đến nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bênh cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Trang thiết bị được đầu tư mới khá hiện đại, số lượng máy mới được lắp đặt tăng nhanh, đạt 2,86 máy/100 dân.

Có được sự phát triển ngày hôm nay, huyện Thuỷ Nguyên luôn nhớ ơn những người con đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Hướng về truyền thống uống nước nhớ nguồn, Huyện Uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên luôn chăm lo đời sống các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; duy trì và đẩy mạnh các phong trào ''''Đền ơn đáp nghĩa''''. Xây dựng quỹ nhân đạo ở khắp các cơ quan, đơn vị trong toàn huyện với số tiền ủng hộ quỹ trên 1 tỷ đồng. Đây là một nghĩa cử cao đẹp cần được duy trì và phát huy có hiệu quả ở các xã trong toàn huyện.

Thuỷ Nguyên - khởi nguồn của dựng xây, của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ trở thành một trung tâm đô thị hành chính của Thành phố Cảng. Trong thời gian tới, khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thuỷ Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hoá - xã hội./.


Danh sách các xã, thị trấn thuộc huyện

Thị trấn Núi Đèo
Thị trấn Minh Đức
Xã Lại Xuân
Xã An Sơn
Xã Kỳ Sơn
Xã Liên Khê
Xã Lưu Kiếm
Xã Gia Minh
Xã Gia Đức
Xã Minh Tân
Xã Phù Ninh
Xã Quảng Thanh
Xã Chính Mỹ
Xã Kênh Giang
Xã Hợp Thành
Xã Cao Nhân
Xã Mỹ Đồng
Xã Đông Sơn
Xã Hoà Bình
Xã Trung Hà
Xã An Lư
Xã Thuỷ Triều
Xã Ngũ Lão
Xã Phục Lễ
Xã Tam Hưng
Xã Phả Lễ
Xã Lập Lễ
Xã Kiền Bái
Xã Thiên Hương
Xã Thuỷ Sơn
Xã Thuỷ Đường
Xã Hoàng Động
Xã Lâm Động
Xã Hoa Động
Xã Tân Dương
Xã Dương Quan